Chúa Là Niềm Vui Của Con
Is 35,1-6a.8a.10; Gc 5,7-10; Mt 11,2-11
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa.
Tôi nhắc lại: vui lên anh em, Chúa đã gần đến” (Pl 4,4-5).
Đó là những lời đầu tiên mà phụng vụ hôm nay chọn để dẫn chúng ta vào Chúa Nhật “của niềm vui” (Domenica Gaudete). Màu sắc phụng vụ trong thánh lễ này không phải là màu tím như thường lệ của Mùa Vọng, nhưng là màu hồng, diễn tả niềm vui mong chờ Chúa đến.
Bài đọc I, được trích từ sách tiên tri Isaia, hoàn toàn là một bài tụng ca niềm vui:
“Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò (Is 35,1-2).
Bởi vậy, đây là cơ hội thuận lợi để chúng ta suy nghĩ về một điều mà mọi người, cả người tín hữu lẫn người không có niềm tin đều ao ước là được sống hạnh phúc vui tươi. Tất cả chúng ta đều muốn được hạnh phúc. Hạnh phúc là điều mà chúng ta luôn khắc khoải tìm kiếm từng ngày.
Tuy nhiên, tại sao mọi người đều tìm kiếm hạnh phúc, nhưng chỉ có một số người thực sự hạnh phúc và ngay cả những người thực sự hạnh phúc thì chỉ được hạnh phúc trong một thời gian ngắn? Tôi cho rằng đây là lý do chính yếu làm cho chúng ta không có được hạnh phúc hoặc chỉ đạt được hạnh phúc một thời gian ngắn bởi chúng ta đã sai lầm trong việc tìm kiếm đối tượng mang lại hạnh phúc cho chúng ta. Giống như chúng ta cố gắng để trèo lên đỉnh một ngọn núi cao, nhưng chúng ta chọn hướng đi sai, nên nó không đưa chúng ta lên tới nơi hoặc chỉ đưa chúng ta tới một đoạn đường rồi phải tụt xuống.
Bởi lẽ, Kinh Thánh nói với chúng ta rằng: “Thiên Chúa là tình yêu,” nhưng con người tìm cách đảo lại như thế này: “Tình yêu là Thiên Chúa” (đây là điều mà triết gia Đức Ludwig Feuerbach đã nói). Mạc khải nói rằng: “Thiên Chúa là niềm hạnh phúc,” nhưng con người đảo lại trật tự của nó và cho rằng: “Hạnh phúc là Thiên Chúa!”
Khi làm như thế, điều gì xảy ra ở đây? Bởi lẽ, sống trên trái đất này, chúng ta không thể có hạnh phúc hoàn hảo và tuyệt đối; cũng vậy, chúng ta không thể có tình yêu tuyệt đối. Chúng ta chỉ biết và nếm hưởng một phần nào đó về hạnh phúc. Hạnh phúc ở trần gian qua nhanh và chúng ta cảm thấy hạnh phúc chỉ kéo dài một thời gian. Như thế, khi chúng ta nói: “Hạnh phúc là Thiên Chúa,” chúng ta đã thần hóa những kinh nghiệm nhỏ bé của mình; chúng ta cho những thành công, những thành quả do bàn tay hoặc trí tuệ con người làm ra là “Thiên Chúa.” Chúng ta biến hạnh phúc chúng ta thành một thần tượng hay đúng hơn thành một thứ ngẫu tượng. Điều này lý giải tại sao người tìm kiếm Thiên Chúa thì luôn tìm thấy niềm vui, trong khi đó người tìm kiếm niềm vui lại không luôn tìm thấy Thiên Chúa. Con người giảm thiểu việc tìm kiếm niềm vui của mình theo số lượng: người ta tìm cách gia tăng nhiều hơn sự vui thú và khoái cảm, hoặc tăng thêm sự hưởng lạc trong các thú vui – giống như người nghiện ma túy cần những liều nặng để có mức độ khoái cảm mạnh hơn.
Chỉ có Thiên Chúa là hạnh phúc và làm cho chúng ta hạnh phúc. Đây là lý do tại sao Thánh Vịnh nói:
“Hãy lấy Chúa là niềm vui của bạn,
Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng” (Tv 37,4).
Trong Thiên Chúa, cả những niềm vui của cuộc sống hiện tại của chúng ta cũng không bị lấy đi, hoặc biến thành nỗi lo lắng, nhưng được làm cho phong phú hơn và ý nghĩa hơn, ngọt ngào hơn. Chúng ta không chỉ tìm kiếm niềm vui thiêng liêng mà còn cả những niềm vui nhân bản cao quý: như niềm vui từ gia đình vì thấy đứa con mình lớn lên, niềm vui từ tình bạn, sức khỏe, sáng tạo, nghệ thuật, cả lúc nhàn rỗi và lúc thưởng thức cảnh đẹp tự nhiên. Chỉ có Thiên Chúa có thể làm cho miệng của một vị thánh phải kêu lên: “Lạy Chúa, có Ngài là đủ làm con vui rồi! Lòng con không cần gì thêm!”
Trong Thiên Chúa, chúng ta tìm thấy mọi sự mà con người thường diễn tả bằng từ hạnh phúc. Người là niềm hạnh phúc vô biên và tuyệt đối; Người là “điều mắt chưa từng thấy, tai chưa hề nghe, lòng người chưa hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1 Cr 2,9).
Đây là lúc để chúng ta công bố “tin vui” với một sự can đảm lớn lao rằng Thiên Chúa là hạnh phúc và niềm hạnh phúc này sẽ không còn đau khổ, không bị tước đoạt, không còn thập giá mà Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta trong ngày sau hết. Đó là phần thưởng cuối cùng cho những ai yêu mến Người. Trong cái nhìn đó, đau khổ được dùng để tháo gỡ những sự cản trở đối với niềm vui, để mở lòng chúng ta ra đón nhận niềm hạnh phúc lớn lao như thế trong ngày cánh chung. Amen!
Niềm Vui Ơn Cứu Độ
(Is35,1-6a.10; Tv 145; Gc 5,6-10; Mt 11,2-11)
Lm. Petrus Lửa Hồng
Cuộc sống con người, suy cho cùng là hành trình truy tìm niềm vui, bình an: từ niềm vui của đứa trẻ khi thấy thân mẫu trở về từ phố chợ đến niềm vui của người gia đơn chiếc có bạn tâm phúc hàn huyên chuyện thế sự; từ niềm vui của tuổi thanh xuân với những thành quả tới niềm vui của người lớn quây quần bên cháu con… Tuy nhiên, niềm vui lớn nhất vẫn là “tâm thái an nhiên tự tại” trong tương quan với Trời – Đất và tha nhân. Niềm vui, hạnh phúc là gia sản, là báu vật mà con người kiếm tìm, nhưng đó không phải là thứ hàng hóa mà người ta có thể mua bán, đổi trao ngoài chợ búa, cũng không phải là sự thoả mãn sở thích… những thứ sẽ chóng tan biến khi tàn canh, cuối chợ. Niềm vui đích thực đến từ một Ai khác. Và đó là hoa trái của những người kiên tâm trên con đường đoan chính.
- Niềm vui trong Chúa
Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật của niềm vui, âm vang mà Phaolô nhắc nhở giáo đoàn Philíphê: “Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại, vui lên anh em. Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi” (4,4). Như thế, niềm vui mà chúng ta hoan hưởng không phải là một cảm giác thoả mãn về thứ mình sở đắc, cũng không phải là sự huyên náo trong chốn vũ trường hay nụ cười gượng gạo trong cách xã giao, nhưng đó là niềm vui Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người – niềm vui ơn cứu độ.
Isaia trong bài đọc thứ nhất và Thánh vịnh 145 loan báo về niềm vui này, niềm vui bừng lên bởi ánh huy hoàng của Đức Chúa cho vũ trụ và cho con người. Sự hiện diện của Vầng Hồng đem lại sự tươi mát và phong nhiêu cho hoang mạc khô cằn, cho muôn thọ tạo đang cháy cơn khát Cội nguồn. Và niềm vui vĩnh cửu là sự giải phóng cho con người: những người nghèo, kẻ khốn cùng trong xứ sở, không chỉ là sự giải thoát về mặt thể lý mà căn bản hơn tinh thần, cả bình diện bên ngoài và lẫn bên trong.
Isaia tuyên sấm về Niềm vui Tin mừng. Niềm vui hệ tại ở Thực tại, một Con người chứ không còn là một dòng tin loan truyền, Niềm Vui nhập thể và ở giữa dân Người. Quả thực, sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô là sự hiện diện của niềm vui ơn cứu độ; sự hiện diện đem lại ơn giải thoát, đem lại niềm vui trào tràn cho những ai gặp gỡ Người. Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của Gioan, Người hướng ông đọc những dấu chỉ diễn tả thực tại của triều đại Messia: Mở mắt cho người mù, tai người điếc nghe được, kẻ què được nhảy nhót như nai, người khòm lưng đứng thẳng lên… Đó là thời mà những kẻ nhát đảm đứng vững; những bàn tay rã rời và những đầu gối bủn rủn được đỡ nâng, quyền lợi người nghèo được trả lại, kẻ đói được no nê cơm bánh.
Niềm vui của chúng ta hệ tại ở việc gặp gỡ một Con người – Chúa của niềm vui, căn nguyên và cứu cánh của hiện hữu chúng ta. Để hoan hưởng niềm vui này, chúng ta cần.
- Niềm vui đón đợi người kiên tâm và canh thức
Niềm vui không bao giờ đến với những kẻ ăn xổi, nóng vội mà là tiêu đích của những người lữ hành trên đường hy vọng, những ai kiên tâm đón đợi như kẻ cầm canh, người tôi tớ đợi chủ trong đêm trường. Đó là niềm vui của những cô trinh nữ khôn ngoan được đi vào phòng hoa chúc với Lang Quân. Thánh Giacôbê trong bài đọc thứ hai nhắn gửi chúng ta phải “kiên tâm vững chí” đón đợi niềm vui trong Chúa như “nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa mầu quý giá. Họ phải đợi cả đầu mùa lẫn cuối mùa” (Gc 5,7).
Chúng ta phải kiên nhẫn, vì chính Thiên Chúa luôn đi bước trước và Người kiên nhẫn kiếm tìm để trao ban niềm vui cho chúng ta. Người đang chờ đợi chúng ta, bước tiếp theo thuộc về chúng ta. Chúng ta cần lên đường trong kiên trì và canh thức, hoán cải để gặp được Đấng là Niềm vui đang tiến đến với chúng ta. Thánh Phaolô nhắc nhớ:
“Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay, ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia … Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng mà chiến đấu” (Rm 13, 11-12).
Với sự kiên tâm và canh thức, chúng ta không sợ mất hy vọng, không bị những ảo ảnh chóng qua mê hoặc, nhưng có thể nhận ra dấu chỉ thời đại tiến bước trong niềm vui sứ vụ.
- Niềm vui triển nở trong sự khiêm hạ sứ vụ
Gioan là khuôn mặt nổi trội trong Mùa Vọng bởi sứ vụ của ngài: “ngôn sứ của Đấng Tối Cao”, kẻ đi trước dọn đường, mở lối cho Vầng Đông từ chốn trời cao (x. Lc 1,76-78). Vị Ngôn Sứ hoang địa này luôn cháy hết mình cho sứ vụ với ngọn lửa của tình thần Êlia (x. Mt 17,10-12). Ông ra sức loan báo thời của Niềm vui và kêu gọi mọi người hoán cải (x. Mt 3,1-2). Ông can đảm trong việc bảo vệ chân lý (x. Mc 6,18). Ông thao thức để chứng thực về Đấng sẽ đến (x.Mt 11,3), và đã trịnh trọng giới thiệu Người cho người khác (x. Ga 1,35). Cuối hành trình của sứ vụ, ngài đã cảm đảm rút lui trong khiêm hạ, và chung số phận với các bậc ngôn sứ, hy sinh tính mạng cho chân lý, cho niềm vui ơn cứu độ.
Niềm vui luôn hiên hữu nơi những tâm hồn cháy lửa tình yêu vì sứ vụ. Nơi tâm hồn cháy lửa nhiệt tâm, niềm vui bùng phát và loa toả trong phong cách hành động, phong cách hiện diện của những con người của niềm vui Tin mừng. Đó là niềm vui có khả năng hâm nóng những tâm hồn nguộn lạnh, thôi thúc những kẻ do dự đăng trình, vực những kẻ trong chốn vực sâu của tuyệt vọng, khổ luỵ tìm thấy ánh sáng dõi lối hành trình.
Niềm vui đích thực luôn mạnh liệt, có khả năng xuyên thấu mọi vách ngăn, vượt qua mọi biên cương. Niềm vui này mãnh liệt và cũng rất dịu ngọt bởi đó là hoa trái của khiêm hạ. Đó là niềm vui của những Anawim – những người nghèo của Thiên Chúa – của Gioan tiền hô, người tự xưng mình chỉ là “tiếng kêu trong hoang địa”. Gioan, con người khiêm tốn, chỉ nhận mình “là tiếng, còn Chúa, ngay từ nguyên thuỷ đã là Lời. Gioan là tiếng trong thời gian, còn Đức Kitô, ngay từ đầu, là Lời vĩnh cửu. Bỏ Lời đi, tiếng chẳng là gì?” Không có Lời, tiếng chỉ là âm thanh lèng phèng, hỗn độn và vô nghĩa (St. Augustino, Kinh Sách tuần III MV). Khi tiếng vang của mình đang lên, người ta tôn phong ngài là Messia, Gioan chỉ nhận mình là kẻ dọn đường, không phải là Đấng phải đến, là kẻ thấp hèn không đáng cởi quai dép cho Đấng đến sau. Ngài chỉ nhận mình kẻ môi giới, là phụ rể và thế là niềm vui trọn vẹn. Rằng:
“Tôi đây không phải là Đấng Kitô mà kẻ được sai đến trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy, bây giờ trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,28-30).
Niềm vui luôn được biểu tỏ cách trào tràn và đầy dịu ngọt nơi những tâm hồn khiêm hạ. Nói cách khác, chỉ có những ai khiêm hạ, sống dưới cái nhìn của Thiên Chúa, khiêm tốn bước đi trong sứ vụ, trong kiên tâm và tỉnh thức mới sở đắc và nếm hưởng niềm vui trường cửu. Đó là sự cao cả mà Chúa Giêsu nói về Vị Ngôn sứ dọn đường của mình. Niềm vui ấy chính là phụng thờ Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta và phục vụ anh chị em của mình.
Mùa Vọng – Mùa Của Niềm Vui Và Hành Động Yêu Thương
Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương
Chúa nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa nhật Hồng, Chúa nhật của niềm vui. Nhưng giữa một thế giới còn đầy bất ổn, chiến tranh, dịch bệnh, chia rẽ gia đình thì chúng ta tìm đâu ra niềm vui thật? Quả thật, nhiều người nghĩ rằng hạnh phúc đến từ tiền bạc, quyền lực hay sắc đẹp. Nhưng thực tế cho thấy: khi tâm hồn không có Chúa, thì cho dù có tất cả, lòng ta vẫn trống vắng. Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta khám phá một bí quyết: Chỉ khi Đấng Thiên Sai đến cư ngụ trong tâm hồn, chúng ta mới có bình an và niềm vui bền vững.
- Thiên Chúa làm nở hoa những sa mạc của cuộc đời
Nơi bài đọc I, ngôn sứ Isaia nói giữa thời lưu đày đau thương: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy… hãy nở hoa như khóm huệ!” Thật vậy, mọi người có thể hỏi: Sa mạc có thể nở hoa không? Về mặt tự nhiên, không. Nhưng với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể. Sa mạc ấy tượng trưng cho: tâm hồn khô cằn; gia đình chia rẽ; một cộng đoàn mất định hướng hay một người mất niềm tin. Quả thật, khi Đấng Thiên Sai đến, Ngài làm mọi thứ đổi mới: người mù thấy được, người què bước đi, người câm reo hò. Vì thế, Thiên Chúa không chỉ đổi thay không gian, mà đổi thay con tim con người. Khi lòng ta có Chúa, nỗi buồn hóa thành vui, thất vọng thành hy vọng.
- Kiên nhẫn chờ Chúa đến
Trong bài đọc II, Thánh Giacôbê nhắc chúng ta: “Hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần.” Tác giả đưa ra hình ảnh so sánh thực tế: Nhà nông gieo hạt xong phải chờ mưa đầu mùa và cuối mùa. Không thể nóng vội! Cũng thế, để Chúa đến trong tâm hồn, ta cần kiên nhẫn tập luyện các nhân đức: sống thuận hòa; bớt xét đoán; bớt phàn nàn; noi gương các ngôn sứ luôn trung thành và kiên nhẫn. Quả thật, Mùa Vọng là thời gian huấn luyện tâm hồn để trở nên bình an.
- Hãy thuật lại những điều mắt thấy tai nghe
Nơi bài Tin mừng, Gioan Tẩy Giả đang ngồi trong tù, nghe những việc Đức Giêsu làm, liền sai môn đệ đến hỏi: “Thầy có thật là Đấng phải đến không?” Gioan không nghi ngờ, nhưng ông muốn môn đệ ông tự chứng kiến. Để trả lời cho câu hỏi của Gioan, Đức Giê-su không giảng giải dài dòng, không đưa lý thuyết thần học, nhưng Ngài nói với họ về ‘thuật lại những điều mắt thấy tai nghe’: người mù sáng mắt, kẻ què đi được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo nghe Tin Mừng…” Đó chính là những dấu chỉ Isaia đã tiên báo cách Chúa Giê-su hơn 700 năm. Đấng Thiên Sai đến không phải để làm vua theo kiểu thế gian, nhưng để chữa lành, xót thương, giải thoát và nâng đỡ mọi người.
Ngoài ra, chúng ta còn nghe Đức Giêsu khen Gioan: không phải cây sậy phất phơ trước gió; không tìm tiện nghi gấm vóc; nhưng là người mạnh mẽ, đơn sơ, trung tín đến cùng. Tuy vậy, Chúa còn nói một điều gây ngạc nhiên: “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.” Vì sao? Vì người thuộc về Đức Kitô, sống theo Tin Mừng, thì được hưởng đặc ân làm con Thiên Chúa, điều mà các ngôn sứ Cựu Ước chưa từng có. Câu chuyện sau đây giúp chúng ta hiểu được việc thực hành Lời Chúa trong môi trường sống của chúng ta.
- Câu chuyện minh hoạ – Chứng nhân giữa bom đạn
Những năm gần đây, chiến tranh Ukraina vẫn tiếp diễn. Giữa bi thương ấy, một hình ảnh gây xúc động toàn thế giới: Cha Petro, một linh mục trẻ miền Đông Ukraina. Khi lệnh sơ tán được ban ra, cha vẫn quyết định ở lại.
Cha nói: “Nếu con rời đi, ai lo cho người già yếu? Ai trao Mình Thánh cho người hấp hối?” Nhiều người can ngăn vì cha không có bổn phận phải chết.
Cha chỉ đáp: “Con đã hứa với Chúa ở lại với đoàn chiên. Nếu bỏ họ lúc này, con sẽ mất chính phẩm giá ơn gọi.” Nhiều tháng liền, cha đi trong tuyết lạnh, giữa tiếng pháo kích, mang thuốc men, lương thực, trao Mình Thánh Chúa cho những người đang chờ chết trong các hầm trú ẩn. Nhiều video lan truyền hình ảnh cha đi dưới tuyết rơi, tay nâng Mặt Nhật giữa tiếng nổ đạn bom. Đầu năm 2025, cha Petro tử nạn khi đang đưa người tàn tật khỏi vùng nguy hiểm. Cha chết, nhưng đời cha là một Tin Mừng sống động. Cha đã “thuật lại cho đời bằng chính hành động” những điều mình đã thấy và đã nghe từ Đức Kitô. Cha Petro là Gioan Tẩy Giả của thời đại hôm nay.
- Áp dụng thực hành Năm mục vụ 2025–2026: Mỗi Kitô hữu là một môn đệ thừa sai
Hội Thánh Việt Nam mời gọi chúng ta sống năm mục vụ với chủ đề: “Mỗi Kitô hữu là một môn đệ thừa sai – Anh em là ánh sáng thế gian.” Quả thật, để mang bình an và ánh sáng của Chúa đi khắp nơi, hành trang ta cần mang theo không phải là tiền bạc hay quyền lực, mà là tám món quà Mùa Vọng: “Yêu thương – thứ tha – an hòa – chân lý – tin kính – trông cậy – ánh sáng – niềm vui.” Chúng nhỏ bé, “chẳng đủ đầy một tay nải”, nhưng những nơi ta cần đến từ gia đình, giáo xứ, khu xóm, công ty,… lại đang rất thiếu những điều ấy. Vậy làm sao sống thừa sai trong đời thường? Chúng ta cùng nhau đưa ra những cách thức thực hành mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chỉ dẫn như sau:
5.1. Ba việc mỗi ngày – đơn giản nhưng biến đổi mạnh mẽ
a/ Một phút cầu nguyện để Chúa ở trong lòng
“Lạy Chúa, xin dùng con hôm nay để đem bình an cho gia đình và những người con gặp.”
b/ Một việc yêu thương cụ thể
Một lời xin lỗi, một lần tha thứ, một cử chỉ giúp đỡ, một sự nhường nhịn, dầu những điều rất nhỏ nhưng làm sáng lên Tin Mừng trong mọi nơi và mọi lúc.
c/ Một câu Lời Chúa để chiếu sáng bước chân
“Hãy là ánh sáng thế gian.”; “Phúc thay ai xây dựng hòa bình.”; “Chúa là mục tử chăn dắt tôi.”
5.2. Bốn môi trường sống – nơi ta trở thành môn đệ thừa sai, đó là:
– Gia đình: sống hoà thuận, cầu nguyện chung và nói năng nhẹ nhàng.
– Giáo xứ: thăm người nghèo, tham gia hội đoàn và xây dựng hiệp nhất.
– Nơi làm việc: trung thực, không nói xấu và đối xử tử tế.
– Mạng xã hội: không tung tin giả, không công kích và biết chia sẻ những điều tốt lành.
5.3. Kinh Hòa Bình – chương trình sống của người môn đệ thừa sai
Lạy Chúa, xin làm cho con trở nên khí cụ bình an của Chúa:
Đem yêu thương vào nơi oán thù,
Đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
Đem an hòa vào nơi tranh chấp,
Đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Đem tin kính vào nơi nghi nan,
Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng,
Dọi ánh sáng vào nơi tối tăm,
Đem niềm vui đến chốn u sầu.
Quả thật, ai sống được tám điều này, người ấy đã thật sự là ánh sáng giữa thế gian, là môn đệ thừa sai của Đức Kitô.
Tóm lại, Chúa nhật của niềm vui không chỉ mời gọi ta vui, nhưng còn mời gọi ta làm cho người khác vui. Đức Giêsu đến để biến sa mạc thành vườn hoa, biến nỗi buồn thành hy vọng. Xin cho chúng ta mở lòng để Người đến, rồi trở nên khí cụ bình an, để mỗi nơi ta đi qua đều sáng lên ánh sáng của Chúa Kitô. Amen.
Sống Niềm Hy Vọng
Lm. Anthony Trung Thành
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội Thánh, chúng ta cử hành Chúa Nhật III Mùa Vọng, Chúa Nhật của Niềm Vui, thường được gọi là Chúa Nhật Màu Hồng. Màu hồng nói lên niềm vui nhẹ nhàng và thanh thoát của những người đang tiến gần tới ngày Chúa đến. Niềm vui này không phải chỉ xuất phát từ cảm xúc nhất thời, nhưng phát sinh từ một niềm hy vọng vững bền: hy vọng vào Thiên Chúa trung tín, Đấng không ngừng hành động trong lịch sử cứu độ và trong cuộc đời mỗi người chúng ta.
Bài đọc I trích sách Isaia (Is 35, 1-6a. 10) thắp lên cho chúng ta một niềm hy vọng lớn lao giữa khung cảnh đen tối của dân Israel đang kiệt sức trong lưu đày. Ngôn sứ nhìn thấy những bàn tay rã rời, những đầu gối bủn rủn, những tâm hồn mệt mỏi vì bất công và đau khổ. Thế nhưng, ngay giữa sa mạc khô cằn của thất vọng ấy, lời của Thiên Chúa vang lên như một luồng gió mới: “Hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ và hân hoan múa nhảy reo hò” (Is 35,2). Đó không phải là niềm vui bột phát nhưng là hoa trái của xác tín rằng Thiên Chúa vẫn đang đến. Isaia tiếp tục củng cố lòng dân: “Can đảm lên, đừng sợ… Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35,4). Những hình ảnh tràn đây sức sống về người mù được thấy, người điếc nghe được, kẻ què nhảy nhót, người câm reo vui là minh chứng rằng nơi nào Thiên Chúa hiện diện, nơi đó hy vọng được phục hồi và niềm vui được tái sinh. Viễn tượng cuối cùng càng rực sáng hơn khi Isaia cho biết: “Họ sẽ được Đức Chúa giải thoát trở về… mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu… đau khổ và khóc than sẽ biến mất” (Is 35,10).
Những lời ấy không chỉ dành cho dân Israel ngày xưa mà còn chạm đến những hoàn cảnh rất thật của chúng ta hôm nay. Có khi tâm hồn chúng ta cũng trở nên một sa mạc khô cằn; có khi chúng ta cũng mang những “bàn tay rã rời” và “đầu gối bủn rủn” trước những khó khăn của đời sống gia đình, của sứ vụ hay trong đời sống đức tin. Nhưng chính lúc ấy, niềm hy vọng Kitô giáo được đánh thức, bởi chúng ta tin rằng Thiên Chúa vẫn đến để nâng đỡ, để làm nở hoa những điều tưởng đã chết. Như Giáo lý dạy: Hy vọng là sự tin tưởng vào các lời hứa của Đức Kitô và cậy dựa vào ân sủng Chúa Thánh Thần (GLHTCG 1817). Còn thư Do Thái nhắc nhở: “Ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10,23).
Bài đọc II (Gc 5, 7-10) tiếp tục mở ra cho ta một chiều kích khác của niềm hy vọng, đó là sự kiên nhẫn. Giữa thử thách và bất công, các Kitô hữu tiên cũng từng nóng lòng mong Chúa trở lại. Nhưng thời gian chờ đợi kéo dài khiến nhiều người nản chí. Trong hoàn cảnh đó, Thánh Giacôbê mời gọi cộng đoàn hãy kiên trì như người nông phu chờ mưa đầu mùa và cuối mùa. Ngài nói: “Anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến” (Gc 5,8).
Tinh thần ấy cũng được Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh khi khẳng định rằng hy vọng không thể tách rời khỏi sự kiên nhẫn, nhất là khi ta phải đối diện với thử thách trong đời sống đức tin. Thật vậy, ngày nay thế giới mang nhiều dấu chỉ của một “sa mạc khô cằn”: xã hội dần loại trừ Thiên Chúa, niềm tin liên tục bị thách thức, và ngay cả môi trường gia đình hay nơi làm việc đôi khi cũng trở thành mảnh đất khó sống đức tin. Tuy nhiên, chính trong sa mạc ấy, con người lại khám phá ra giá trị thiết yếu của đức tin và đánh thức niềm khao khát Thiên Chúa. Người tín hữu được mời gọi trở nên mạch nước sự sống giữa thế giới khô cạn ấy bằng chứng tá bền bỉ và lòng trung kiên. Sứ mạng này đôi khi trở thành thập giá, nhưng từ thập giá của Đức Kitô lại tuôn trào nguồn hy vọng cho nhân loại. Vì thế, hy vọng chỉ có thể lớn lên khi chúng ta kiên trì bước đi giữa thử thách, tin rằng Thiên Chúa đang âm thầm dẫn đưa ta đến Đất Hứa (x. Evangelii Gaudium, 86).
Tin Mừng hôm nay (Mt 11, 2-11) giúp ta hiểu rõ hơn bản chất của niềm hy vọng Kitô giáo qua biến cố Gioan Tẩy Giả. Từ trong ngục tối, ông sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng?” (Mt 11,3). Gioan, người đã cống hiến trọn đời cho Thiên Chúa, cũng đã có lúc bối rối trước sự thinh lặng của Ngài. Ông mong chờ một Đấng Messia quyền uy trừng phạt kẻ ác, nhưng Chúa Giêsu lại xuất hiện dưới hình ảnh của một người thầy hiền lành, chữa lành và xót thương. Sự khác biệt giữa mong đợi và thực tế ấy làm đức tin Gioan chao đảo. Điều này cho thấy niềm hy vọng không phải lúc nào cũng rõ ràng; đôi khi ánh sáng bị che khuất bởi thử thách, và Thiên Chúa không đáp lại theo cách chúng ta muốn. Thế nhưng, hy vọng đích thực chính là tiếp tục tin tưởng ngay cả trong những thinh lặng ấy.
Trước câu hỏi của các môn đệ Gioan, Chúa Giêsu đáp lại không bằng lý thuyết, nhưng bằng những dấu chỉ cụ thể: người mù được thấy, kẻ què đi được, người phong được sạch, người chết sống lại, và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo (x. Mt 11,4-5). Đây chính là những dấu chỉ Isaia đã tiên báo, chứng minh rằng thời cứu độ đã thật sự đến, và nơi nào Đức Kitô hiện diện, ở đó sự sống được đổi mới. Những dấu chỉ ấy không chỉ thuộc về quá khứ, nhưng vẫn đang tiếp tục xảy ra trong Hội Thánh hôm nay: khi một gia đình hòa giải, khi một tội nhân trở về, khi người nghèo được yêu thương, khi một tâm hồn khô khan được đánh thức. Tất cả đều là những bằng chứng sống động cho thấy Đấng Cứu Thế đang âm thầm làm cho thế giới “nở hoa”. Thật chí lý khi Thánh Irênê nói: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống.”
Niềm hy vọng Kitô giáo không chỉ hướng đến tương lai, nhưng được sống từng ngày trong hiện tại. Sống hy vọng là không đầu hàng trước thất vọng, không để nỗi buồn thống trị tâm hồn, không để bóng tối bi quan che khuất ánh sáng của Chúa. Hy vọng là tin rằng Thiên Chúa có thể biến đổi mọi sự, ngay cả khi hoàn cảnh bên ngoài trái ngược. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nói rất rõ: hy vọng giúp chúng ta kiên nhẫn chịu đựng thử thách, kiên trì làm điều thiện và tìm thấy bình an khi kết hiệp với Đức Kitô chịu thương khó (GLHTCG 1821). Vì thế, mỗi nghĩa cử bác ái, mỗi lời tha thứ, mỗi hành động nâng đỡ trong đời sống hằng ngày trở thành những dấu chỉ cụ thể của niềm hy vọng, như những đóa hoa hồng của Chúa Nhật Màu Hồng, báo hiệu rằng Chúa đang đến gần trong cuộc đời chúng ta.
Một câu chuyện trong hồi ký Night của Elie Wiesel giúp chúng ta cảm nghiệm sâu hơn sức mạnh của hy vọng. Trong trại tập trung Auschwitz đầy u tối, một cậu bé Do Thái đã thắp lên một ngọn nến nhỏ, và ánh sáng yếu ớt ấy làm bừng sáng cả căn lều. Một cụ già chứng kiến thì thầm: “Miễn là còn một ngọn nến được thắp lên, chúng ta vẫn còn hy vọng.” Wiesel viết rằng chính ánh sáng nhỏ bé ấy đã cứu linh hồn ông, vì bóng tối không bao giờ có tiếng nói cuối cùng. Thánh Hilariô cũng từng nói: “Một tia sáng nhỏ cũng đủ xua tan cả căn phòng đầy bóng tối.” Câu chuyện dạy mỗi người chúng ta hãy trở nên những ngọn nến hy vọng: chiếu tỏa bằng sự hiền lành, lòng bác ái, sự bao dung và những nghĩa cử chân thành. Một ánh sáng nhỏ đã làm bừng sáng cả căn lều, thì một ánh sáng nhỏ cũng có thể sưởi ấm một tâm hồn, và một hành động nhỏ cũng có thể thắp lại hy vọng cho cả một đời người.
Chúa Nhật Màu Hồng nhắc chúng ta rằng niềm vui Kitô giáo phát sinh từ niềm hy vọng đặt nơi Thiên Chúa, Đấng trung tín và không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Niềm hy vọng ấy được nuôi dưỡng bởi lời hứa cứu độ, lớn lên trong kiên nhẫn giữa thử thách và được thể hiện qua những nghĩa cử yêu thương mỗi ngày. Giữa những sa mạc của cuộc sống, xin cho mỗi người chúng ta trở nên một ngọn nến hy vọng, tỏa sáng bằng sự hiền lành, bác ái, bao dung và lòng tín thác vào Chúa, để ánh sáng ấy góp phần xua tan bóng tối trong lòng mình và nơi những người xung quanh.
Nguồn: dcvphanxicoxavie.com


Có thể bạn quan tâm
Ngày 13/12: Thánh Lucia, Trinh nữ, Tử đạo
Th12
Suy Niệm Chúa Nhật III Mùa Vọng A – Chúa Là Niềm Vui..
Th12
Legio Giáo Hạt Văn Hạnh & Giáo Hạt Trung Nghĩa Tổng Hội Thường..
Th12
HÀNH TRÌNH HY VỌNG: Chuyến thăm mục vụ của Đức Cha Louis Nguyễn..
Th12
“Dán Mác” – Lưỡi Gươm Giết Người Trong Thời Đại Số
Th12
Năm Thánh Hy Vọng Gần Đi Qua – Muôn Con Tim Được Đánh..
Th12
Chủng Sinh Chân Thật Trong Lời Nói
Th12
VPTGM-GPHT: Thông báo Thông tin giả mạo Giáo xứ Thọ Vực xin tiền
Th12
Giới thiệu: Lời Chúa Hằng Ngày
Th12
Thoát khỏi bẫy than phiền để cất lời ngợi khen
Th12
Nguồn Gốc và Ý Nghĩa Của Hang Đá
Th12
5 Cách Đơn Giản Để Dọn Tâm Hồn Đón Chúa
Th12
Hội Ngộ Truyền Thông Giáo Tỉnh Hà Nội
Th12
Bài Hát Cộng Đồng Chúa Nhật 3 Mùa Vọng Năm A
Th12
Logo Năm Mục Vụ 2026: Mỗi Kitô Hữu Là Một Môn Đệ Thừa..
Th12
Hội Thảo Quốc Tế “Di Dân Việt Nam Với Sứ Mạng Loan Báo..
Th12
Giáo hạt Ngàn Sâu Khép Lại Hành Trình Năm Thánh Trong Niềm Tin..
Th12
Ngày 08/12: Đức Maria Vô nhiễm Nguyên tội
Th12
VPTGM-GPHT: Thông báo Thành Lập Văn Phòng Tiếp Nhận Các Trình Báo Liên..
Th12
Tìm Hiểu Năm Mục Vụ 2025-2026: Mỗi Kitô Hữu Là Một Môn Đệ..
Th12